Nguyễn Du được biết đến như một đại thi hào của dân tộc, nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Ông không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà còn được ngưỡng mộ ở mảng thơ chữ Hán trong đó “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc Tiểu Thanh kí) là một trong những bài thơ nổi tiếng, được nhiều người ca ngợi. Bài thơ không chỉ thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du trước những con người tài hoa bạc mệnh mà còn bộc lộ những tâm sự thiết tha, sâu kín của tác giả.
Tiểu Thanh là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du ba trăm năm trước ở đời Minh (Trung Hoa). Vốn thông minh nên từ nhỏ nàng đã thông hiẻu các môn nghệ thuật cầm, kì,thi, hoạ, lại có phong tư lộng lẫy hơn người. Năm 16 tuổi, nàng được gả làm vợ lẽ cho Phùng Sinh, một công tử nhà gia thế. Vợ cả tính hay ghen lại cay độc, bắt nàng ra sống riêng trên Cô Sơn, gần Tây Hồ. Vì đau buồn, nàng sinh bệnh rồi qua đời khi mới tròn mười tám xuân xanh. Nhưng đau khổ muộn phiền được gửi gắm vào thơ nhưng phần lớn bị vợ cả đem đốt hết, may mắn còn một số bài sót lại. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt là Phần Dư. Thương xót, đồng cảm với số phận của người con gái tài tình mà bạc mệnh, Nguyễn Du viết ra bài thơ này.
Hai câu đầu bài thơ, Nguyễn Du đã bày tỏ nỗi xót thương của ông đối với Tiểu Thanh:
“Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.”
Cảnh đẹp ở Tây Hồ đã biến đổi rồi, cuộc đời của một người con gái tài sắc từng sống nơi ấy chẳng còn lại gì. Riêng chỉ có một mình ta là thương xót nàng, viếng nàng bên cửa sổ trước “mảnh giấy tàn” (ý nói những bài thơ còn lại sau khi bị đốt). Hai câu thơ dịch đã thoát lên ý nguyên tác nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tưọng trưng. “Tây hồ hoa uyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vườn hoa cạnh Tây Hồ – một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Hoa nhưng cảnh đẹp ấy nay đã biến thành một gò hoang phế, dấu tích về cảnh cũ người xưa nay còn lại chỉ là cái tàn tạ, đáng thương. Câu thơ đã gợi lên sự dâu bể biến thiên của đời người, làm sao không khỏi ngậm ngùi, chua xót?
Hai câu thơ 3-4, Nguyễn Du tiếp tục suy tư về số phận nàng Tiểu Thanh:
“Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.”
“Son phấn có thần” là nói sắc đẹp có thần, hay người đẹp có linh thiêng, nên chết rồi vẫn khiến người ta thương tiếc mãi. Văn chương không có số mệnh như người mà cũng bị đốt dở. Rõ ràng Nguyễn Du ngậm ngùi, xót xa cho số phận người đẹp và thương cho cái tài của nàng. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng của người đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân: son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn nhẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời, cũng thể hiện tấm lòng giàu cảm thương của Nguyễn Du với những con người tài hoa bạc mệnh.
-Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến qua hai câu luận, đó là sự day dứt, băn khoăn của Nguyễn Du về sự bất công, nghiệt ngã của trời với những người tài sắc mà bất hạnh:
“Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.”
“Nỗi hờn kim cổ” có nghĩa là mối hận có từ xưa đến nay, từ Tiểu Thanh đến Nguyễn Du. Tại sao những người tài hoa mà lại bạc mệnh như vậy? Ông vừa oán trách trời đất đã bất công với những người tài sắc vừa coi mình là người cùng hội cùng thuyền với nàng Tiểu Thanh: “Phong vận kì oan ngã tự cư”(Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã). Ở đây, từ “ngã” (chữ Hán) có nghĩa là “tôi”, “ta”, được dịch là “khách”. Nguyễn Du đã gửi gắm vào đây tâm sự của mình: Nỗi oan lạ lùng của Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của ta!
Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế:
“Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?”
Con số “ba trăm năm” là tính từ đâu thì cho đến nay vẫn chưa có ai giải thích rõ, nhưng có thể hiểu đó là một thời gian rất lâu sau nữa. Bây giờ một mình ta đã khóc cho nàng, không hiểu sau này có ai đó trong thiên hạ khóc ta không? Câu thơ thể hiện cảm nhận cô đơn của Nguyễn Du trước cuộc đời, ông không thấy ai đồng cảm với mình, chỉ biết gửi hi vọng vào hậu thế, và hậu thế đã đáp ứng mong muốn cháy bỏng đó của nhà thơ: Không cần đợi đến 300 trăm năm sau mà ngay trong thế kỉ XIX,Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyển đã chia sẻ với thi hào dân tộc: “Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm Truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông lụy của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy”.
Ngay trong những năm đánh Mĩ ác liệt,nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh thi hào dân tộc (1765-1965), Tố Hữu đã thay mặt các thế hệ mai sau gửi đến Nguyễn Du tấm lòng tri âm,tri ân sâu sắc,vừa chia sẻ với những tâm tư trăn trở của nhà thơ trong suốt cuộc đời,vừa đánh giá rất cao vị trí của Nguyễn Du và thơ văn Nguyễn Du trong lòng hậu thế và dân tộc. Đó là bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” mà Tố Hữu đã có những câu thơ tuyệt bút thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với “tiên sinh Tố Như“:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
- Kết bài: “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc Tiểu Thanh kí) thể hiện những tình cảm, những nỗi niềm tâm sự vượt không gian và thời gian của đại thi hào Nguyễn Du xuất phát từ cái gốc “Thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt Nam ta. Với bài thơ này, một lần nữa chúng ta cảm nhận sâu sắc tài năng lỗi lạc, tấm lòng nhân ái bao la của tác giả cũng như những tâm sự sâu kín của nhà thơ. Xét trên nhiều phương diện “Đọc Tiểu Thanh kí” xứng đáng là một kiệt tác, một trong những bài thơ chữ Hán tiêu biểu nhất của Nguyễn Du.
Thảo luận về bài viết này