I/ Lời bình về tác phẩm
– “Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu Chanh. Tôi làm thơ rất nhanh, làm xong đọc trước Đại hội, được mọi người hoan nghệ liệt nhiệt. Tôi chả có chút lý luận gì về thơ cả. Dẫu sao bài thơ Tây Tiến có cái hào khí của lãng mạn một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc…” (Nhà thơ Quang Dũng nói về “Tây Tiến”)
– “Tây Tiến là một sáng tác có giá trị về tư tưởng, về nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mỹ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa nên thơ và gợi cảm. (Giáo sư Hà Minh Đức)
– Bài thơ lúc đầu có tên là Nhớ Tây Tiến. Nhưng phải ngót gần chục năm sau (1956), Quang Dũng mới đổi tên thành Tây Tiến. Bởi vì, theo lời kể của người con trai Quang Dũng là ông Quang Vĩnh: “Cha tôi cho rằng Tây Tiến – nhắc đến đã thấy nhớ rồi. Thế nên, để chữ “nhớ” là thừa”. Quả thật, cả bài thơ là một nỗi nhớ “chơi vơi” chia làm nhiều điệp khúc. Mỗi điệp khúc lại tựa như tiết tấu của một đoạn nhạc từ sâu lắng đến điệp khúc mạnh mẽ và khép lại cũng rất nhẹ nhàng với những vần “ôi”, “ơi”… mà Xuân Diệu đã từng nhận xét “đọc Tây Tiến như ngậm nhạc trong miệng”. (Trần Ngọc Tuấn, Hội nhà văn TP.HCM)
– Thơ kháng chiến có vô số bài viết bằng gam điệu nhớ, như: Nhớ (Hồng Nguyên), Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), Bao giờ trở lại (Hoàng Trung Thông), Việt Bắc (Tố Hữu), Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên)… Nhưng nhớ đến “chơi vơi”, với những buổi chiều “cơm lên khói” và cứ bềnh bồng lan tỏa trong không gian của mây trời, núi đồi Tây Bắc dù chỉ một năm gắn bó làm đại đội trưởng như Quang Dũng thì chỉ có sắc màu riêng của Tây Tiến! (Trần Ngọc Tuấn)
– “Từ khi hành quân bằng đôi chân, chúng tôi thật sự nếm mùi Tây Tiến. Mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, những chiều “Oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường Hịch cọp trêu người”, rồi rải rác dọc biên cương những “nấm mồ viễn xứ” là rất thực, có pha chút âm hưởng nhớ rừng của Thế Lữ mà sau này vô tình tôi nhận ra” (Theo lời kể Quang Dũng)
– “Tứ thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/Quân xanh màu lá dữ oai hùm” bật ra từ ngữ cảnh hồi ấy trong đoàn chúng tôi có rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu, da xanh rớt. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn lại không giữ vệ sinh, vả lại có giữ cũng chẳng được nên bộ đội không những bị ốm mà còn chết vì sốt rét cũng nhiều.”(Theo lời kể Quang Dũng)
– “Tôi muốn gợi thêm một ý thơ của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái gian khổ, thiếu thốn ở miền Tây. Ngay cả khi nằm xuống, nhiều tử sĩ cũng không đủ manh chiếu liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa đường.” (Theo lời kể Quang Dũng)
– “Trong một lần hành quân, đoàn quân Tây Tiến dừng chân ở Mường Hịch. Người dân nơi đây kể về con cọp chuyên bắt người ăn thịt rồi ngỏ lời nhờ bộ đội Tây Tiến diệt trừ. Vốn là người gan dạ, khỏe mạnh, mới nghe thế máu mã thượng trong người bố đã bốc lên. Ông gọi một số anh em trong đơn vị lại rồi lấy một con lợn trói tại gốc cây làm mồi bẫy, còn bản thân cùng anh em chia nhau nấp đợi hổ về. Nửa đêm, dân làng nghe tiếng súng vọng lại từ rừng già, rồi sau đó là tiếng hổ gầm điên loạn, gần sáng thì thấy Quang Dũng dẫn đầu một tốp bộ đội hớn hở tìm về, người ướt đẫm sương. Lúc bị thương con hổ đã điên cuồng chống trả, bố phải nổ mấy phát súng mới kết liễu được nó.” (Theo lời kể của nhạc sĩ Quang Vĩnh, con trai cả của Quang Dũng)
– “Tên thật của bà là Kiều Dinh. Bà là nghệ sỹ trong đoàn kịch Thế Lữ và là một trong bốn chị em gái rất đẹp ở phố Hàng Bông thập niên 40 của thế kỷ trước. Chữ “kiều” trong tên bà Kiều Dinh ngày ấy được cho là bố mình “mượn” để làm danh từ chung trong câu “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Vì câu thơ này, bố bị chỉ trích nặng nề, rằng đi chiến đấu gian khổ mà lại mơ tưởng xa hoa, lãng mạn…” (Theo lời kể của Bùi Phương Thảo, con gái Quang Dũng)
– Ra đời năm 1948, bài thơ Tây Tiến có số phận khá truân chuyên, như nhà văn Nguyễn Thị Như Trang đã viết: “Mặc dù cả bài thơ là một áng văn ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ca ngợi những người con ưu tú của đoàn quân Tây Tiến vì nghĩa lớn của dân tộc đã “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” nhưng Tây Tiến vẫn bị coi là bi lụy, để cho những ý nghĩ yếu đuối làm suy giảm sức chiến đấu. Cũng tức là lập trường tư tưởng của tác giả không kiên định, “có vấn đề”…”. Sau đổi mới năm 1986, Tây Tiến mới được nhìn nhận, đánh giá lại và đến năm 1990 đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
– “Có những ngày tháng không thể quên, cái gian khổ ác liệt không thể quên, cả cái hào hùng, lãng mạn cũng không thể quên. May mắn thay, giữa những ngày tháng không thể quên ấy, lại có những bài thơ không thể quên như Tây Tiến của Quang Dũng. Đã có lúc Tây Tiến được trích dẫn như một dẫn chứng để phê phán cái xu hướng gọi là tiểu tư sản trong thơ kháng chiến, một đối chứng để khẳng định những gì nên có trong thơ mới. Nhưng rồi Tây Tiến cuối cùng cũng được nhớ lại như một kỷ niệm đẹp của kháng chiến, một tiếng thơ bi tráng của một nền thơ.” (Lời của thầy giáo dạy văn nổi tiếng Lương Duy Cán ở Quảng Bình).
II/ TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả tác phẩm
Quang Dũng làm thơ không nhiều, nhưng chỉ “Tây Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”… cũng đã làm nên một chân dung thơ độc đáo tài hoa vào bậc nhất trên thi đàn Việt. Ông cũng có nhiều truyện ngắn, ký được đánh giá là “không thể trộn lẫn với bất cứ ai khác”. Truyện ngắn và ký của ông, theo tổng kết của một số bạn bè, là “nhiều gấp mấy lần số trang thơ”. Quang Dũng còn được biết đến như một người đa tài: ngoài làm thơ, viết văn, ông còn vẽ tranh và viết nhạc. Nhiều bức tranh của ông cũng mang dấu ấn tình yêu với xứ Đoài, được công chúng yêu thích. Cũng như nhiều văn nhân nghệ sĩ khác, sau Cách mạng Tháng Tám bùng nổ và đến Toàn quốc kháng chiến, Quang Dũng đã “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”. Sau một thời gian làm phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu, năm 1947, ông gia nhập binh đoàn Tây Tiến. Khi đã chuyển đơn vị khác, vào một ngày cuối năm 1948, ngồi ở Phù Lưu Chanh – một làng thuộc huyện Vũng Hoà tỉnh Hà Tây (cũ) – nhớ về đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. “Tây Tiến” được rút từ tập “Mây đầu ô”, xuất bản năm 1986 tại nhà xuất bản Tác phẩm mới. Khi in lại, tác giả đổi thành “Tây Tiến”.
2. Cảm hứng sáng tác
Cảm hứng sáng tác của Quang Dũng thăng hoa giữa hai hình ảnh đoàn quân Tây Tiến và núi rừng Tây Bắc. Đoàn quân Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh quân Pháp ở Lão cũng như Tây Bắc Việt Nam. Đội quân Tây Tiến gồm những người lính miền xuôi, phần lớn là thanh niên, học sinh trí thức Tiểu Tư Sản Hà Nội đã “gác bút nghiên”, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, tham gia Chiến dịch Tây Bắc (Điện Biên Phủ). Đây là những chàng lính trẻ gian khổ mà hào hùng, hào hoa, vừa rực cháy lí tưởng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, vừa phơi phới những mộng mơ lãng mạn, ám ảnh từ trong sách vở (Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm…). Nét độc đáo này của nhân vật trữ tình thực sự hấp dẫn hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng. Núi rừng Tây Bắc là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Thiên nhiên nơi đây cực kì hiểm trở và hoang dại nhưng cũng cực kì hùng vĩ và thơ mộng, tạo ra một bệ đỡ hoành tráng để khắc tạc nên chân dung kiêu hùng của người lính Tây Tiến.
3. Bố cục
Bài thơ được chia làm 4 khổ thơ giống như 4 đợt sóng của nỗi nhớ
– Đoạn 1. Bao trùm là nỗi nhớ Tây Tiến, hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội khác thường, và hình tượng người lính với những chặng đường hành quân gian khổ sâu nặng nghĩa tình quân dân. Bút pháp nghệ thuật lãng mạn với những nét vẽ chắc khỏe gân guốc dựng lên bức tranh thiên nhiên hoành tráng. Sử dụng biện pháp đối lập tương phản.
– Đoạn 2. Nỗi nhớ về những cảnh sinh hoạt của người lính với đêm liên hoan văn nghệ, vẻ đẹp của sông nước Tây Bắc hiện thực mà huyền ảo. Tác giả sử dụng nghệ thuật hài hòa với những nét vẽ mềm mại tinh tế, tạo nên bức tranh lụa mượt mà. Cảm xúc lãng mạn thể hiện qua việc hướng tới những màu sắc có tính chất xứ lạ phương xa (man điệu, nhạc về Viên Chăn)…
– Đoạn 3. Trực tiếp dựng tượng đài lãng mạn và bi tráng về hình tượng người lính (vẻ đẹp lãng mạn – bi tráng thể hiện qua 4 nội dung). Bút pháp nghệ thuật lãng mạn: trên cơ sở hiện thực mà lãng mạn, sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản.
– Đoạn cuối. Nhớ lời thề trước buổi lên đường thể hiện vẻ đẹp tư thế lên đường một đi không về dù ở đâu tâm hồn cũng trở về với đoàn quân Tây Tiến.
III/ ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM
1. Phân tích đoạn 1
1.1. Hai dòng thơ đầu: nỗi nhớ Tây Tiến da diết trong tâm tưởng nhà thơ
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ mênh mang, da diết, hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn bài:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Cảm xúc ấy chính là nỗi nhớ. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần nhằm nhấn mạnh và tăng chiều sâu của cảm xúc. Nhà thơ nhớ về Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình “Sông Mã xa rồi”. Nhớ con sông vì con sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành, chứng kiến biết bao buồn vui, bao mất mát, hi sinh, vất vả của người lính Tây Tiến. Nỗi nhớ nữa là “Tây Tiến ơi” là nỗi nhớ đồng đội, nhớ tình đồng chí của một thời chinh chiến. Đó còn là “nhớ về rừng núi” là nhớ địa bàn hoạt động giữa thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, hiểm trở vừa thơ mộng trữ tình. Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi” dường như đã khắc họa được cái hồn của cả bài thơ. Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả. Ca dao có câu:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả “nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, lửng lơ, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên. Nghệ thuật sử dụng vần “ơi”, kết hợp từ láy “chơi vơi” là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt làm câu thơ sâu lắng, bồi hồi cứ thế ngân dài tha thiết vọng vào lòng người, vào không gian xa thẳm mênh mông của thế giới hoài niệm.
1.2. Sáu dòng thơ tiếp theo là nỗi nhớ về rừng núi Tây Bắc hiểm trở, hoang sơ, hùng vĩ, con đường hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ, hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
a. Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hiểm nguy nhưng không ngăn nổi bước chân người lính:
Thiên nhiên khắc nghiệt: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ “lấp”cả đoàn quân. Đoàn binh hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ “mỏi” làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân rã rời.
Dưới ngòi bút của Quang Dũng, con đường hành quân mở ra với biết bao nhiêu khó khăn gian khổ. Đường đi toàn dốc cao, vực thẳm được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình: “khúc khuỷu” (quanh co khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” (bảy chữ mà đã có tới năm chữ là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy. Có thể hình dung người lính Tây Tiến vừa leo lên được đỉnh dốc đã mệt mỏi lắm rồi lại phải đổ xuống một con dốc khác và cứ thế cuộc hành quân kéo dài với dốc cao vực thẳm.
Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” mang đến cho người đọc sự mới lạ, có chút gì rất hóm hỉnh đùa vui kiểu lính. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” vừa tinh nghịch theo kiểu lính vừa giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Nó làm ta liên tưởng đến người lính trong thơ Tố Hữu:
Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
(Lên Tây Bắc)
Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức. Lúc này đây, thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Câu thơ này có thể hiểu: cuộc hành quân hết lên rồi lại xuống, xuống thấp rồi lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, như bị bẻ đôi, diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Hình ảnh ấy ta cũng đã từng bắt gặp trong “Vọng Lư Sơn Bộc Bố” của Lý Bạch “Phi thiên trực há tam thiên xích” (Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước) hay những hình ảnh rùng rợn hoang dã trong thơ của Khương Hữu Dụng:
Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm thác đổ không tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim.
(Từ đêm mười chín)
b. Thiên nhiên Tây Bắc với những nét vẽ mơ mộng trữ tình
Có cảnh đoàn quân đi qua bản Mường Lát vào ban đêm và phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình “hoa về trong đêm hơi”. “Hoa về” nghĩa là hoa nở. “Đêm hơi” là đêm sương. Hai hình ảnh ấy đặt cạnh nhau tạo nên một không gian thơ mộng. Có thể hiểu người lính hành quân trong gian khổ nhưng tâm hồn lúc nào cũng luôn lạc quan, yêu đời làm bạn với hoa rừng, sương núi.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng như phút nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương. Tất cả nhạt nhòa trong màn mưa rừng dày đặc. Bức tranh mang cái lãng mạn của núi rừng miền Tây, vừa có cái dữ dội hiểm nguy nhưng lại có cái trữ tình đáng nhớ.
1.3. Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả sự hi sinh gian khổ của người lính đồng thời tô đậm thêm sự dữ dội của chốn đại ngàn:
Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân gian khổ ấy đã có người ngã xuống vì kiệt sức. “Dãi dầu” là dầm mưa dãi nắng, vất vả khó nhọc. “Không bước nữa” là kiệt sức. “Gục lên súng mũ” là ngã xuống. “Bỏ quên đời” là hi sinh, mất mát. Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã làm cho câu thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó là sự bi tráng, hào hùng. Người lính ra đi mà như đi vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
“Chiều chiều” rồi “đêm đêm” (thời gian gợi sự hiểm nguy rình rập). Những âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng nước độc.
1.4. Hai dòng thơ cuối: Sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương – Mai Châu.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
“Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào. Khung cảnh đậm đà tình quân dân. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.
(Tiếng hát con tàu)
Sau một thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào tiếp đón bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Chính nơi đây, mọi khó khăn gian khổ như bị đẩy lùi mà thay vào đó là niềm lạc quan và tình thơ đong đầy.
1.5. Nghệ thuật:
Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập…tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu giá trị.
2. Phân tích đoạn 2. Tám câu thơ tiếp là cảnh đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây
2.1. Bốn dòng thơ đầu: Cảnh đêm liên hoan văn nghệ
Nếu ở đoạn một là cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội khác thường thì đến đoạn hai là một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc với vẻ đẹp mĩ lệ và thơ mộng. Những nét vẽ bạo khoẻ gân guốc để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hiện thực vừa huyền ảo, thực mà vẫn đậm chất lãng mạn:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Khi đêm liên hoan văn nghệ bắt đầu thì tất cả bừng lên trong ánh sáng của lửa đuốc liên hoan. Con người và cảnh vật như ngất ngây trong những điệu múa điệu xoè, trong âm thanh rạo rực của tiếng khèn. Đêm liên hoan văn nghệ đẹp như hội hoa đăng.
Bốn câu thơ viết về cảnh đêm liên hoan văn nghệ có hai cách hiểu: Có người cho rằng đây là đêm liên hoan văn nghệ của bộ đội có đồng bào địa phương đến góp vui. Nhưng lại có người cho rằng đây là những người lính Tây Tiến đóng giả hoá trang thành những cô gái để cùng múa vui trong đêm liên hoan văn nghệ nhằm vợi bớt đi những gian khổ hi sinh của cuộc đời người lính. Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn ngời lên vẻ đẹp tâm hồn lạc quan cách mạng của người lính Tây Tiến.
Hai chữ “kìa em” thể hiện tâm trạng ngạc nhiên, sung sướng vừa như ngắm nhìn vừa như thốt lên lời trầm trồ sung sướng khi chợt nhận ra vẻ đẹp của những dáng hồng sơn cước, vẻ đẹp của những thiếu nữ Tây Bắc vừa lộng lẫy, rực rỡ với xiêm áo, những màu sắc vừa dịu dàng kín đáo với dáng điệu nàng e ấp. Đằng sau hai chữ “kìa em” ta như thấy cả những nụ cười, những ánh nhìn tinh nghịch của những chàng lính trẻ hồn nhiên, yêu đời.
Tâm hồn lãng mạn của những chiến binh Tây Tiến thể hiện qua cảm hứng lãng mạn hướng về những màu sắc có tính chất xứ lạ phương xa và những nhu cầu văn hoá tinh thần. Họ thật sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ trước những điệu múa của người dân tộc (man điệu). Họ thực sự thích thú trước âm thanh tiếng khèn gửi về những miền đất xa xôi (nhạc về Viêng Chăn). Những người lính vốn xuất thân từ học sinh, sinh viên đâu chỉ mang theo cuộc đời người lính những vũ khí, những súng ống, gươm đao… mà còn mang cả những nhu cầu văn hoá tinh thần. Họ tổ chức những đêm liên hoan văn nghệ. Họ ngất ngây trong âm thanh của tiếng khèn, họ biết thưởng thức những vũ điệu của người dân tộc. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, nghệ thuật múa, nghệ thuật âm nhạc đã xây nên bao hồn thơ ở những người lính Tây Tiến.
2.2. Bốn dòng thơ sau: Cảnh sông nước Tây Bắc mênh mang thơ mộng, huyền ảo
Nếu cảnh đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc cảm giác mê say, ngất ngây thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên vẻ đẹp mênh mang thơ mộng, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Thiên nhiên mang vẻ đẹp huyền ảo với không gian và thời gian. Thời gian là buổi chiều tĩnh lặng đã lùi dần và khuất hẳn, cảnh Tây Bắc hoang sơ và huyền bí với
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
giờ chỉ còn lại một Tây Bắc với vẻ đẹp thơ mộng, không gian là cảnh sông nước với đôi bờ sương giăng, đôi bờ phơ phất ngàn lau. Dòng sông như chảy từ thời tiền sử, như mang nỗi niềm cổ tích của ngàn xưa.
Tác giả không miêu tả cụ thể, tỉ mỉ mà chỉ loáng thoáng vài nét gợi nhưng đã vẽ nên một bức tranh lụa mượt mà. Tất cả đều thoáng nhẹ “chiều sương”, “ngàn lau” phơ phất mang cái hồn của cảnh vật. Con thuyền độc mộc và con người cũng một dáng vẻ thanh thoát. Nét bút thoáng nhẹ này rất phù hợp với cảnh thiên nhiên hư ảo, phù hợp với nỗi nhớ trong hoài niệm.
Nổi bật bên trên dòng sông như nỗi niềm cổ tích là hình ảnh những thiếu nữ Tây Bắc với vẻ đẹp duyên dáng trên những con thuyền độc mộc. Họ đẹp như những bông hoa rừng trong “chiều sương”. Hai chữ “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” đã biến những bông hoa thành những sinh thể có hồn.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
“Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút:
Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…
(Chinh phụ ngâm)
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:
Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.
(Lau mùa thu, Chế Lan Viên)
Hoa cũng như người dường như đang làm duyên, soi mình trên sông nước chòng chành. Những thiếu nữ Tây Bắc đẹp như những bông hoa rừng, cũng đã hoá tâm hồn với những người lính trẻ giờ đã trở thành kỉ niệm, là hành trang tinh thần không thể thiếu để họ mang theo suốt cuộc đời người lính. Đoạn thơ giầu chất nhạc, chất hoạ. Nhạc điệu cất lên từ âm thanh của tiếng khèn, từ tâm trạng rạo rực của người lính. Hình ảnh được tạo dựng bởi những nét vẽ tài hoa có màu sắc của xiêm áo có đường nét của những điệu múa điệu xoè, có hình ảnh, dáng người trên con thuyền độc mộc. Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến đã được xây dựng bằng chất nhạc chất hoạ và chất thơ.
Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc. Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế. Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
3. Phân tích đoạn 3: Hình tượng người lính
Hình tượng người lính là hình tượng nổi bật của thơ ca, văn học hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Viết về anh bộ đội cụ Hồ, các tác giả đều có chung một cảm xúc yêu mến tự hào. Tuy nhiên, bên cạnh những vẻ đẹp chung, hình tượng người lính trong thơ ca còn có vẻ đẹp riêng. Nhớ về giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, có hai kiểu hình tượng người lính được phản ánh trong thơ ca. Có hình tượng người lính mang vẻ đẹp chân thực mộc mạc qua cảm hứng và bút pháp hiện thực như “Đồng chí” của Chính Hữu, “Nhớ” của Hồng Nguyên, lại có hình tượng người lính mang vẻ đẹp lãng mạn như hình tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng.
Khi dựng lên tượng đài người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã sử dụng bút pháp nghệ thuật lãng mạn đem đến cho vẻ đẹp này một vẻ đẹp bi tráng. Vẻ đẹp lãng mạn bi tráng của người lính được thể hiện qua dáng vẻ và tinh thần.
3.1. Những chiến sĩ Tây Tiến mang dáng vẻ oai phong lẫm liệt
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Viết về người lính Quang Dũng không né tránh những gian khổ hy sinh chỉ có điều hiện thực không được miêu tả một cách trần trụi mà được nhìn qua cảm hứng lãng mạn. Cũng như nhiều tác giả khác Quang Dũng cũng nói tới bệnh sốt rét hiểm nghèo từng hành hạ người lính từng gây nên tử vong. Tuy nhiên các tác giả khác thường sử dụng bút pháp hiện thực còn Quang Dũng thì sử dụng bút pháp lãng mạn. Bệnh sốt rét hiểm nghèo được gọi đúng tên của nó trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu:
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Bài thơ “Cá nước” của Tố Hữu thì trên gương mặt của anh vệ quốc quân vẫn còn lưu lại dấu vết của bệnh sốt rét hiểm nghèo, chứng tích của căn bệnh quái ác vẫn còn in hằn trên má anh vệ quốc.
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Quang Dũng cũng nói về bệnh sốt rét, về gian khổ hy sinh của những chiến binh Tây Tiến nhưng trên cơ sở lãng mạn hoá hiện thực. Sự thực là do bệnh sốt rét nên người lính không mọc tóc trở lại, có cách hiểu khác không mọc tóc là không cho mọc tóc để thuận tiện trong đánh giáp lá cà, nhưng qua cái nhìn lãng mạn thì mái đầu không tóc của anh “vệ trọc” đã gợi lên vẻ đẹp oai phong lạ thường. Sự thực là do bệnh sốt rét lại thiếu ăn mất ngủ nên da dẻ người lính xanh xao nhưng qua cảm hứng lãng mạn thì màu xanh ấy lại hoà lẫn với lá nguỵ trang với rừng đại ngàn. Qua cái nhìn lãng mạn người lính hiện lên như “mãnh hổ” ngự trị giữa chốn rừng thiêng đúng là người lính “ốm” mà không “yếu”, sức mạnh tinh thần của họ vẫn làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.
3.2. Tâm hồn người lính cũng mang một vẻ đẹp lãng mạn
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Lính Tây Tiến phần đông xuất thân từ học sinh, sinh viên, có người lại ra đi từ Hà Nội – “Người Tràng an” là người Thủ đô thanh lịch. Chính vì vậy mà trong cuộc sống kháng chiến gian khổ những con người ra đi từ trường xưa phố cũ trong tâm hồn vẫn mang nhiều mộng và mơ. Họ “mộng” chiến công truy kích giặc qua biên giới Việt – Lào “Mắt trừng” là để hướng về phía kẻ thù mài sắc tinh thần cảnh giác, quyết tâm chiến đấu. Tâm hồn người lính không chỉ mang nhiều mộng mà còn nhiều “mơ”. Họ “mơ” về một đôi mắt huyền, một mái tóc thề, một tà áo trắng, một dáng kiều thơm. Họ “mơ” về Hà Nội “Dáng kiều thơm” là để tâm hồn về với người thương nơi Hà Thành hào hoa thanh lịch, chữ “thơm” trong câu thơ là đồng nghĩa với sắc nước hương trời. Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những “mộng rớt” , “buồn rớt” chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
(Đất nước)
Những người nông dân mặc áo lính trong bài thơ “Đồng chí” – của Chính Hữu, “Nhớ” – của Hồng Nguyên, tâm hồn chân thành mộc mạc như ca dao tục ngữ họ có nhớ về kỷ niệm là nhớ về “Giếng nước gốc đa”, “gian nhà tranh gió lung lay”, Nhớ về bạn thân cày “Nhớ” – Hồng Nguyên, còn lính Tây Tiến của Quang Dũng lại thắp sáng tâm hồn mình bằng mộng và mơ.
Cách diễn đạt của tác giả có phần sách vở khi dùng hình ảnh dáng kiều thơm để nói về người phụ nữ đẹp dễ thương, điều này lại có tác dụng phản ánh những người lính vốn xuất thân từ học sinh, sinh viên, cách nói “Dáng kiều thơm” chứng tỏ tâm hồn họ thấm nhuần vẻ đẹp của những áng Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Hoa Tiên mà đã một thời họ được học khi ngồi trên ghế nhà trường.
3.3. Vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng của người lính Tây Tiến còn được thể hiện qua tư thế lên đường vì lý tưởng và sự hy sinh cao đẹp.
Tư thế lên đường: Người lính lên đường chiến đấu hy sinh vì lý tưởng trong Tây Tiến với tư thế chiến đấu coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Lại một lần nữa khi viết về người lính, về chiến tranh, Quang Dũng không né tránh những hy sinh mất mát, cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ hoang nơi rừng sâu biên giới. Những nấm mồ nơi rừng sâu không người hương khói, ít người qua lại gợi lên sự bùi ngùi thương cảm xót xa. Tuy nhiên cứ mỗi khi chìm vào trong đau thương thì cảm xúc thơ của Quang Dũng được nâng lên đôi cánh lý tưởng của cảm hứng lãng mạn.
Cái bi thương dường như được vợi đi bởi câu thơ xuất hiện nhiều từ Hán Việt mang sắc thái trang trọng cổ kính “Biên cương mồ viễn xứ” đã biến những nấm mồ hoang nơi rừng sâu biên giới thành những mồ chí tôn nghiêm vĩnh hằng.
Cái bi thương bị át đi bởi vẻ đẹp lý tưởng: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Hai chữ “chẳng tiếc” đặt giữa câu thơ nói lên thái độ thanh thản dứt khoát, hoàn toàn tự nguyện của những con người quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. “Đời xanh” gợi tuổi trẻ với bao hoa mộng, hy vọng nhiều là thế đẹp là thế đáng yêu là thế mà sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc, hỏi có sự hy sinh nào cao đẹp hơn thế? Thật rằng, họ cũng có những tiếc nuối nhưng trên hết là vì lý tưởng:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
(Những người đi tới biển, Thanh Thảo)
Cái chết của người lính được bao phủ bởi hào quang của cảm hứng lãng mạn và bi tráng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông mã gầm lên khúc độc hành
Nếu bằng cái nhìn hiện thực trần trụi đơn thuần thì cái chết của người lính gợi lên bao niềm thương cảm xót xa khi các anh về nơi an nghỉ cuối cùng một manh chiếu che thi thể cũng không có, vẫn có một cách hiểu khác về câu thơ áo bào thay chiếu (là có chiếu mà không có áo bào) nhưng qua cái nhìn lãng mạn thì chiếc áo người lính bạc vì mưa nắng, rách vì bom đạn đã trở thành chiếc áo bào sang trọng.
Người lính ra đi dẫu không có tiếng kèn đưa tiễn của đám quân nhạc thì đã có khúc độc hành của dòng sông Mã, với chữ “gầm”, sông Mã đã gầm lên, tác giả đã trao cho con sông khúc nhạc hồn tử sĩ vừa đau thương vừa uất hận. Dường như cả đất trời, cả quê hương đang nghiêng mình tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng.
Nghệ thuật nói giảm “Anh về đất” vừa làm vơi đi nỗi đau thương vừa vĩnh viễn hoá sự hy sinh cao đẹp. Đối với người lính Tây Tiến chết chưa phải là hết, các anh về đất là về với Đất Mẹ hiền Tổ quốc đang giơ tay âu yếm đón người con thân yêu trở về sau khi hoàn thành nghiã vụ lớn lao, “Các anh về đất” là để hoá thân vào sông núi, để vĩnh viễn với núi sông này để:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Cái chết của người lính có gợi lên sự bi thương nhưng không bi luỵ trái lại vẫn mang vẻ đẹp hào hùng tráng lệ.
IV/ KẾT LUẬN
Thơ ca kháng chiến chống Pháp có nhiều bài hay viết về người lính, đó là các bài “Đồng chí” của Chính Hữu, “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Viếng bạn” của Hoàng Lộc, “Lên Tây Bắc”, “Hoan hô chiến sĩ Điện biên” của Tố Hữu…
Đó là những vần thơ mộc mạc của Chính Hữu nói về những thiếu thốn của người lính:
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
(Đồng Chí)
Đó là giọng điệu sử thi của Nguyễn Đình Thi đam mê trong sự miêu tả sức mạnh như nước tràn bờ của người lính:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
(Đất nước)
Với bài thơ “Tây Tiến” Quang Dũng đã góp vào viện bảo tàng bức tượng đài người chiến sĩ với vẻ đẹp độc đáo – vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng.
Discussion about this post